Đang truy cập: 41
Trong ngày: 1554
Trong tuần: 9868
Lượt truy cập: 2141052


Những nguyên cứu về tác dụng của quả mơ lên sức khỏe con người

 




Chuyện dài xuyên thế kỷ về hạt mơ và Vitamin B17 phòng chống ung thư

 Quả mơ, nước mơ, dầu mơ là những loại thức ăn truyền thống của nhiều dân tộc. Tuy nhiên, việc sử dụng hoạt chất amygdalin từ hạt mơ trong điều trị ung thư còn có nhiều ý kiến khác nhau.  Trong lịch sử phát hiện, chế biến và sử dụng thuốc chữa bệnh, có lẽ chưa có loại thuốc nào gặp phải nhiều thách thức và cản ngại trên đường đến với người bệnh như Vitamin B17, hoạt chất amygdalin từ các loại hạt.

 


 Laetrile là gì?

Vào năm 1803,  Pierre-Jean Robiquet và  A. F. Boutron-Charlard đã trích xuất được hợp chất Amygdalin có công thứcC20H27NO11 từ hạt hạnh nhân đắng.  Sau đó người ta cũng tìm thấy hợp chất nầy từ hàng ngàn loại hạt khác, nhiều nhất ở hạt đào, hạt mơ. Amygdalin cũng có tên là Laetrile,    Nitriloside hay Vitamin B17.  Tên gọi Vitamin B17 (B17) dành cho Laetrile có nguồn gốc  từ  Tiến sĩ Ernst Krebs Jr.  với quan điểm nó là một  loại thực phẩm dinh dưỡng.  Laetrile là một hợp chất hoá học, khi vào cơ thể, dưới sự xúc tác của các enzym có sẵn trong hạt và những enzym khác trong ống tiêu hoá sẽ phóng thích ra benzaldehyde, hydrocyanide acid (HCN) và 2 phân tử đường.  HCN là một hợp chất chống phát triển khối u và giảm đau được dùng ở một số nơi để phòng chống ung thư.  Laetrile đã được dùng để chữa ung thư ở Nga, ở Mỹ từ năm 1920.  Laetrile được sản xuất công nghiệp lần đầu tiên từ hạt mơ có 2 tên thương mại là Aprikerrn và Bee Seventeen.  Aprikern có nghĩa là hạt mơ, chữ ghép lại của  2 từ Apricot (quả mơ) và Kernel (phần nhân, phần hạt).  Người ta cũng phân biệt Laetrile được sản xuất, cấp phép sử dụng ở một số nơi ở Mỹ là Laetrile nhân tạo được làm bằng cách tổng hợp, trong khi sản phẩm cùng tên sản xuất và sử dụng ở Mexico là loại có nguồn gốc tự nhiên được chế bằng cách nghiền nát hạt mơ.

Hạt mơ, quả mơ và  những món ăn truyền thống.

Quả mơ, hạt mơ, nước mơ, dầu mơ  đã từng là những loại thực phẩm truyền thống của nhiều dân tộc hoặc nhiều bộ lạc khác nhau, người Abkhasian ở Liên xô, Hunza ở Pakistan, bộ lạc Vilcabiumba ở Ecuador, một số bộ lạc ở Nigeria.  Ở nước ta, sản phẩm thông dụng nhất từ mơ là nước mơ và ô mai.  Trong quyển sách Hunza Health Secret, khi mô tả lối sống trường thọ, mạnh khoẻ và năng động của những người Hunza, tác giả Renee Taylor đã cho biết dân ở đây đã tìm thấy một nguồn chất béo thực vật rất quý trong hạt mơ. Nhiều nghiên cứu sau nầy đã cho thấy dầu thực vật có hàm lượng cao các loại acid béo chưa bão hoà hữu ích cho hệ tim mạch và hoạt động thần kinh  Dầu hạt mơ có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống ở Hunza.  Thậm chí việc gả chồng cho con gái cũng dựa vào yếu tố chàng trai có được bao nhiêu gốc mơ trong vườn nhà anh ta.  Hunza là một khu vực thung lũng trong dãy Hy Mã Lạp Sơn rộng khoảng 600 dặm vuông, cao khoảng 8000 feet khỏi mặt nước biển.  Những phụ nữ ở đây đã truyền cho nhau từ thế hệ nầy sang thế hệ khác về cách sử dụng những món ăn từ quả mơ, hạt mơ.  Họ dùng mơ dưới mọi hình thức.  Mơ được chế thành bột nhồi, mứt, bánh mì và nước mơ.  Dầu mơ để chiên xào, trộn salad, làm thuốc để đẹp da và đẹp tóc.  Hạt mơ cũng được cắn bể để ăn phần hạt bên trong.   Ở đây, người ta ăn mơ tươi 3 tháng mỗi năm, những tháng còn lại ăn mơ khô, ăn cả phần hạt bên trong.

Con đường lao khổ của những chiến sĩ kiên trung vì lời thề Hypocrate.

Năm 1973, hai loại sản phẩm công nghiệp đầu tiên từ hạt mơ, Aprikern và Bee Seventeen được bào chế thành viên nhộng dạng bột có ghi rõ là sản phẩm từ loại hạt ăn được.  Tuy nhiên chỉ sau 3 tháng lưu hành, ngày 23.11.1973 lệnh cấm lưu hành và sử dụng  được ban hành bởi FDA, cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ.  Cơ quan này đã cho rằng B17 có độc tính và không có hiệu quả.  Vào khoảng tháng 12/1975, cảnh sát liên bang Hoa Kỳ đã chặn bắt một chuyến hàng Laetrile dưới dạng viên và thuốc chích  đang trên đường vận chuyển ở Rochester, Minnesota.  Trước đó 3 ngày, ông Robert W. Bradford, một kỹ sư điện, kỹ thuật viên phòng thí nghiệm, cũng bị bắt giữ khi đang nhận Laetrile từ 2 người Mexico.  Ông Bradford là Chủ tịch Uỷ Ban về Quyền Tự Do chọn lựa trong điều trị ung thư (Committee for Freedom of Choice in Cancer therapy).  Uỷ Ban nầy đã được thành lập trước đó không lâu với 28.000 thành viên  bao gồm  1.100 nhân viên y tế với 800 Tiến sĩ y khoa  để tranh đấu cho quyền tự do hành nghề của Bác sĩ cũng như tự do chọn lựa cách trị liệu không độc hại cho người bệnh.  John A. Richardson là  một bác sĩ người Mỹ đã tiên phong trong liệu pháp dinh dưỡng. Ông đã  không ngừng cổ xuý và công khai dùng B17 và cách ăn uống truyền thống để điều trị cho bệnh nhân ung thư.  Cuối năm 1976, ông đã bị bắt vì sử dụng  Laetrile. Cảnh sát cũng đã đột kích vào Bệnh viện của ông, hành hung, còng tay và bắt đi 2 nhân viên, một nam và một nữ trong bệnh viện.  Không lâu trước đó, năm 1975, Bác sĩ James Privitera ở West Covina, California,  người đã công khai sử dụng B17 như liệu pháp dinh dưỡng bị ngưng hành nghề và phải ra trước Uỷ Ban Kiểm Soát Y Khoa vì đã sử dụng những liệu pháp chưa chứng minh được.

 Trong khi những việc cấm đoán tiếp tục diễn ra như trên thì hàng ngàn người Mỹ vẫn phải sang các bệnh viện ở Tijuana, Mexico để được chữa trị bằng B17.  Những người giàu hơn có thể đi đến Tây Đức hoặc một nơi khác để được dùng B17 hoặc những liệu pháp “phi chính thống” tương tự.  Khi trở lại, lúc đi ngang qua biên giới, họ phải cất dấu số lượng thuốc mang theo vì phải đối mặt với sự tịch thu bất cứ lúc nào.  Với ảnh hưởng của các cơ quan truyền thông, phong trào đòi quyền sử dụng B17 càng lan rộng.  Một Uỷ Ban thỉnh nguyện việc lập tức thử nghiệm tác dụng của B17 đã ra đời.  Ngày 26.2.1974, một bản thỉnh nguyện thư (the Test Laetrile Now Petition) mang theo 8.000 chữ ký, đại diện cho 43.000 bệnh nhân ung thư đã được gởi đến Tổng thống Nixon và các Thượng Nghị Sĩ Quốc Hội Mỹ.  Bản thỉnh nguyện thư có ghi “mỗi người trong số 43.000 nạn nhân bệnh ung thư sẵn lòng tham gia vô điều kiện vào bất cứ cuộc thử nghiệm y khoa nào được tổ chức để kiểm tra tác dụng của thực phẩm chức năng có chứa Laetrile”

B17 độc và không độc.

HCN, hoạt chất chính trong B17,  là một chất có độc tính.  HCN tác dụng trên trung khu thần kinh, với liều nhỏ gây hưng phấn, liều lớn gây ức chế, có thể dẫn đến hôn mê.  FDA cho rằng với liều trung bình 2mg HCN mỗi viên thì 5 viên có thể gây ngộ độc cho trẻ em và 20 viên sẽ độc cho người lớn. Tuy nhiên, lý lẽ mà những nhà khoa học bảo vệ B17 đưa ra lại khác.  Liều lượng HCN có trong hạt mơ hoặc liều dùng hàng ngày là không đáng kể và tổng lượng mà FDA đã gợi ra để cho rằng có độc tính không hề xảy trong điều kiện  thực tế.  Trong những cộng đồng có truyền thống sử dụng các thực phẩm từ quả mơ, chưa có một thông tin nào cho thấy có xảy ra ngộ độc vì ăn hạt mơ, hay dầu mơ.  Các nhà khoa học giải thích, không giống như HCN trong thí nghiệm của FDA, dưới sự hiện diện của những enzym có sẵn trong hạt mơ và những enzym khác trong dịch tiêu hoá, lượng HCN sẽ được phóng thích và hấp thu từ từ mà không sợ tổn hại cho cơ thể.  Một luận điểm đáng chú ý nữa là một loại thuốc thường được sử dụng khi cân phân giữa hiệu quả và độc tính, giữa lợi và hại, khi mà điều lợi là cần thiết và luôn lớn hơn điều hại.  Penicillin có thể gây ra những phản ứng nguy hiểm nhưng vẫn được lưu hành, nhân sâm đại bổ nhưng vẫn có những trường hợp vừa uống vào khỏi cổ đã tử vong.  Cụ thể ở bệnh ung thư, hoá chất xạ trị và B17, cái nào độc hơn cái nào.  Vậy mà  xạ trị vẫn gián tiếp được khuyến khích sử dụng và luôn được FDA bảo vệ!  Cũng cần nói thêm, không chỉ có B17, hạt mơ còn có B15 tức acid pangamic, được tìm thấy năm 1951 và được xem là một chất dinh dưỡng hữu ích trong nhiều bệnh về tim, gan, phổi như viêm gan, xơ gan.  Ngoài ra, hạt mơ còn có nhiều chất khoáng và chất chống oxy hoá khác để tạo nên một nhóm chất hổ tương, chất nầy làm tăng hiệu lực của chất kia để nâng cao sức miễn dịch và chống thoái hoá tế bào.  Do đó, B17 trong liệu pháp dinh dưỡng hoàn toàn khác với hoá chất HCN! Không riêng gì những hợp chất có độc tính, giá trị bổ dưỡng hoặc trị liệu của một món thực dưỡng sẽ khác nhau do cách chế biến.  Chẳng hạn cà chua có tác dụng chống ung thư. Tuy nhiên ăn cà chua sống không bằng cà chua nấu chín. Ăn nguyên quả cà chua tác dụng cao hơn nhiều so với ăn chất chiết xuất carotenoids từ cà chua.  Sau nầy một nghiên cứu ở Mỹ cũng cho thấy là ăn các loại thực phẩm tự nhiên có chứa các sinh tố  B6, B12 và Folate sẽ giảm nguy cơ ung thư tuỵ tương ứng là 81%, 73% và 52%.  Ngược lại những người dùng các viên sinh tố tổng hợp  có các sinh tố trên chẳng những không giảm mà còn tăng nguy cơ ung thư tuỵ lên đến 139%.

Ngoài ra, cũng nên biết rằng hợp chất amygdalin còn được tìm thấy trong rất nhiều loại hạt và rau củ khác như hạt kê, hạt đay, hạt mè, hạt hạnh nhân, hạt mận, hạt lê, hạt cherry, khoai mì, hạt đào.  (B17 không có trong hạt điều, hạt chanh).  Trong khi hạt mơ chỉ có khoảng 3% thì tỷ lệ nầy trong hạt đào là 3,5%.  Vậy mà hạt đào, thường gọi là đào nhân lại là một vị thuốc rất phổ biến trong Đông y.  Đào nhân có tác dụng phá huyết ứ, nhuận táo, hoạt trường. Liều dùng trung bình của đào nhân từ 6 đến 12g mỗi ngày. Sách Nam Dược Thần Hiệu có ghi lại 2 phương thuốc mà vị đào nhân có thể dùng với liều cao hơn nhiều.  Bí đại tiện, dùng 40g đào nhân luộc ăn cả lúc bụng đói. Ho hen, thở ngắn, dùng 100g đào nhân giã nát, cho vào một bát nước lắng lấy nước cốt nấu cháu với gạo tẻ.

 Hiệu quả hay không hiệu quả ?

Từ những năm 1950, nhiều nơi trên thế giới đã chú ý đến giá trị của B17.  Theo Tiến sĩ Manuel D. Navarro, Giáo sư sinh hoá ở trường Đại học Santo Tomas, Manila, Philippines  ”Laetrile là loại thuốc lý tưởng để điều trị ung thư”.  Tiến sĩ Ettore Guidettithuộc trường Đại họcTurin, Ý cũng đã báo cáo trước Liên Đoàn Ung Thư Quốc Tế (International Union Against Cancer) vào năm 1954 rằng có thể điều trị cho bệnh nhân ung thư bằng Laetrile mà không cần phải giải phẫu.  Tiếp theo, đã có nhiều nhà khoa học thuộc các nước khác nhau  như Anh, Bỉ, Nhật, Ý, Canada  hoặc đơn độc hoặc hợp tác trong nhiều nghiên cứu y khoa về tác dụng của B17.  Ở Mỹ, Tiến sĩ John A, Morron, trên cơ sở hợp tác nghiên cứu với những tổ chức ở Canada,  đã viết một  báo cáo về những bệnh nhân ung thư được điều trị với B17.  Báo cáo được phổ biến trên tạp chí Experimental Medicine and Surgery (số 4, 1962) có ghi rõ “những kết quả gây ấn tượng dặc biệt về giảm đau”.  Sau một hoặc 2 lần chích B17, có 5 trong số 10 bệnh nhân có cơn đau đã biến mất hoàn toàn.  Trong bảng tóm tắt, ông lưu ý đến những hiệu quả giảm đau, giảm mùi hôi thối, phát triển cảm giác thèm ăn và giảm viêm sưng nơi khối u.

Trong quyển sách Freedom from cancer của Macheal L. Culbert, ký giả báo Berkeley Daily Gazette, đã kể lại một trường hợp ung thư giai đoạn cuối được chữa khỏi.  Một thanh niên 18 tuổi ở Plainview đã được xét nghiệm và chẩn đoán là ung thư dịch hoàn giai đoạn cuối ở Bệnh viện Minnesota, đã trải qua phẫu thụât ở Bệnh viện Mayo.  Sau đó, Bá%3

 

 
Phản hồi

Người gửi / điện thoại

Nội dung

 
 

(c) 2012 Showroom - 68/6/3 Đường Số 3, KP6, Bình Hưng Hòa A, Bình Tân, HCM.

Email hỗ trợ chung: Beaumoreforever@gmail.com - Website: www.beaumore.vn

Điện thoại liên hệ 24/24:  0902 508 653 - 0914 240 539